Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011

TÌM HIỂU NGÀY ‘SINH NHẬT’ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

Lm. Anphong Trần Ðức Phương
Tại Hoa Kỳ, cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đình và nhà hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như trước cửa nhà để chuẩn bị vào mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và Năm Mới sắp tới. Một cách đơn giản chúng ta thường hiểu Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mừng ‘Sinh Nhật’ (Birthday) của Chúa Giêsu (Thí dụ, ngày 25 tháng 12, 2008 là ngày sinh nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu). Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ nầy, chúng ta thấy có những điều không hẳn đơn giản như vậy.

Một chút lịch sử ơn cứu độ.

Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc, sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngã phạm tội, liền bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế 3:23). Tuy nhiên vì "Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Chúa" (ST 1:27), Ngài không để con người phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa ban một Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu của
Ngài là ‘Đấng Cứu Tinh’ (Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái ‘Messiah’ có nghĩa là ‘Đấng được xức dầu’. Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm ‘Vua’ làm ‘Tiên Tri’ (Prophet) làm thầy ‘Tư Tế’ đều được phong chức chính thức bằng việc xức dầu (thánh) (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ ‘Messiah’ chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là ‘Christos’. Danh từ ‘Christos’ chuyển sang tiếng Latinh là ‘Christus’ và sang tiếng Pháp, tiếng Anh là ‘Christ’, Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của Công Giáo và các sách đạo đức) chuyển dịch là ‘Kitô’ (hay Kytô).

Theo Do Thái Gíáo thì Đấng ‘Messiah’ (Kitô) chưa tới cứu độ Dân Ngài. Hàng năm người Do Thái vẫn đến bên bức ‘Tường Khóc’ để cầu nguyện xin ‘Đấng Cứu Độ’ đến.
Theo Kitô Giáo thì ‘Đấng Kitô’ đã Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra thì được đặt tên là ‘Giêsu’ (Jesus) theo như lời Sứ thần truyền tin cho Đức Maria (Luca 1:31 và 2:21). Danh từ ‘Giêsu’ theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là ‘Đấng Cứu Độ’ (Savior). Vì Chúa ‘Giêsu’ chính là ‘Đấng Kitô’ Thiên Chúa đã hứa, nên tên Ngài thường được gọi là ‘Giêsu Kitô’. Thánh Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu ‘Giêsu Kitô’. Chúng ta cũng nên lưu ý là vào thời xưa một người chỉ có ‘tên gọi’, chưa có ‘tên họ’ và ‘tên đệm’; nhưng có những ‘tên hiệu’ ghép vào ‘tên gọi’ trong một số trường hợp, nhất là trường hợp của các vua chúa hay các ‘Danh Nhân’.

Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu cũng được gọi là ‘Emmanuel’ hay ‘Immanuel’ ( Luca 1:23). Danh từ ‘Emmanuel’ trong tiếng Do Thái có nghĩa là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Danh hiệu ‘Emmanuel’đã được Tiên Tri Isaia (740-687 B.C.) nói đến ( Isaia 7:14).

Chúa Giêsu sinh ra năm nào?

Năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người được kể là năm thứ nhất theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay; như thế sinh nhật của Ngài đã chia đôi lịch sử nhân loại.

Theo lịch sử Thánh Kinh thì từ ‘tạo thiên lập địa’ đến năm Chúa Giáng Sinh được gọi là ‘Thời Kỳ Cựu Ước’ và từ năm Chúa Giáng Sinh trở về sau được gọi là ‘Thời Kỳ Tân Ước’. Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay thì trước thời Chúa Giáng Sinh gọi là trước ‘Công Nguyên’ (thường ký hiệu là B.C. ‘Before the birth of Christ’) và từ năm Chúa Giáng Sinh cho đến ngày ‘tận thế’ thì gọi là sau ‘Công Nguyên’ (thường ký hiệu là A.D. ‘Anno Domini’ ‘Năm của Thiên Chúa’).

Như vậy, thí dụ ngày 25 tháng 12 năm 2008 là ngày chúng ta mừng Sinh Nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên vì các nhà làm lịch lúc đầu tính lầm nên năm Chúa Giêsu giáng sinh bị lệch đi mất 6 hoặc 7 năm. Nếu tính đúng thì năm 2008 sẽ phải là năm 2014 (hoặc 2015). Nói một cách khác đơn giản hơn thì vào năm 2008 này tuổi của Chúa Giêsu đã là 2014 (hoặc 2015).

Lý do của việc ‘tính lầm’ nầy là vì vào thời xưa người ta chưa có lịch chung như ngày nay, nên thường tính năm theo triều đại của các vua (như ‘Đời Vua Hùng Vương thứ 18’... chẳng hạn) hoặc theo một biến cố lịch sử nào đó ( như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây ‘Vạn Lý Trường Thành’ chẳng hạn). Các Thánh Sử khi viết sách ‘Phúc Âm’ (hay ‘Tin Mừng’) cũng dùng niên hiệu các vua cùng với những biến cố lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh Matthêu viết: ‘Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôđê trị vì... ( Matthêu 2:1... ). Thánh Luca viết: ‘ Vào thời Hoàng Đế Augustô ra ‘chiếu chỉ kiểm tra dân số’... Khi Giuse và Maria đang ở Bêlem, thì Maria đến ngày sinh con... ( Luca 2:1... )

Khi Chúa Giáng Sinh thì nước "Do Thái" (vùng Palestina) đang dưới quyền ‘đô hộ’ của Đế Quốc Rôma. Lúc đó Đế Quốc Rôma đang cai trị nhiều vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rôma bấy giờ là Augustô. Còn vua Hêrôđê chỉ là một ‘tiểu vương’ thay mặt hoàng đế Rôma cai trị miền Giuđêa (phiá nam Palestina) và nhà vua không phải là người Do Thái. Vùng đất Palestina (nơi người Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền: Galilê (Bắc), Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa Giáng Sinh và thủ đô Giêrusalem nằm phiá nam, thuộc Giuđêa. Vua Hêrôđê này thường được gọi là vua ‘ Hêrôđê Cả’ (Herod the Great) để phân biệt với Hêrôđê ‘Antipa’ là con. Vua ‘ Hêrôđê Cả’ là người đã tiếp kiến các nhà đạo sĩ phương đông đến triều yết để hỏi đường đến chiêm bái Vị Vua Mới Sinh (Matthêu 2:1...). Cũng nhà vua nầy đã ra lệnh ‘giết các hài nhi mới sinh từ hai tuổi trở xuống...’ (Matthêu 2:16...). Vì thế Thánh Giuse phải đưa ‘Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập (Matthêu 2, 13...). Theo các sử gia thì nhà vua này chết vào năm 4 trước Công Nguyên, tức là sau khi Chúa Giêsu sinh ra chừng 3 hay 4 năm (vì Chúa Giêsu sinh ra vào năm 6 hay 7 trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm năm, như đã nói trên). Khi Thánh Giuse nghe tin nhà vua đã chết, liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở lại quê hương (Matthêu 2,19...) (Như vậy là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi Giêsu cũng đã phải trải qua một thời ‘di cư’ sống nơi ‘đất khách, quê người’ như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).

Hêrôđê Antipa (Con của Hêrôđê Cả) là người đã ra lệnh xử trảm Thánh Gioan Tiền Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đã ‘’Rất mừng rỡ khi gặp mặt Chúa Giêsu...’’ (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị bắt và đang bị xử án.

Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma Augustô, thì Chúa Giêsu sinh ra vào ‘đời Hoàng Đế Augustô thứ 20’.

Thực ra người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh ra là năm I để bắt đầu Công Nguyên là ông Diônisiô (khoảng năm 556) đã tính lầm năm sinh của Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma và tính là Chúa giáng sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi thành lập thành Rôma) , rồi ông lấy năm 754 là năm I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và các học giả Kinh Thánh nghiên cứu lại các thời đại Hoàng Đế Augustô và vua Hêrôđê Cả mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh ra sớm hơn; vì thế, Chúa Giêsu bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và cũng vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2008 chính ra đã là năm 2014 (hay 2015).

Tóm lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh.
+Cách thời của Abraham: 21 thế kỷ;
+Cách Maisen với công cuộc xuất hành khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
+Cách thời bà Ruth và các thẩm phán: 11 thế kỷ;
+Cách thời vua David được xức dầu phong vương: một ngàn năm;
+Cách năm đại hội Olympics đầu tiên: 776 năm (Đại Hội thứ 194);
+Khoảng 747 năm sau khi thành lập Thành Rôma.
(Qúy vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về Kinh Thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh Tân Ước trong các bản dịch Kinh Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American Bible; hoặc trong Bible de Jerusalem).

Chúa Giêsu sinh ra ngày nào?

Đọc tiểu sử của các ‘vĩ nhân’ trên thế giới thời xưa, chúng ta thường không thấy nói đến ngày sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC) hay Platon (khoảng 428-348 BC) v.v... Ngay các cụ người Việt Nam chúng ta bây giờ, nhiều vị cũng không nhớ ‘ngày sinh, tháng đẻ’ của mình; nhiều cụ chỉ nhớ là tuổi‘Mùi’ hay tuổi ‘Thìn’. Ngay cả ngày tháng năm sinh của các cụ trên giấy khai sinh cũng không đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa Giêsu cũng không được ghi lại đầy đủ trong các sách Phúc Âm (Tất nhiên Chúa Giêsu cũng không có giấy khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)

Nhưng tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25 tháng 12 hằng năm?

Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hửu chỉ họp nhau để kỷ niệm việc Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cỏi chết, Gioan 20,1...) và gọi ngày này là ‘Chúa Nhật’. Việc cử hành phụng vụ này gọi là ‘Nghi Lễ Bẻ Bánh’ (ý nói đến việc cử hành nghi lễ ‘Thánh Thể’) (Tông Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...). Trong những cuộc ‘họp mặt’ này, các Kitô hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau cầu nguyện và dự ‘Lễ Thánh Thể’ (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các ‘Thánh Đường’, nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay nơi nào có thể được, như tại ‘hành lang Salomon’ (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc ‘Cử Hành’ này cũng không được đều đặn, vì ngay từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và xua đuổi. Đọc sách ‘Tông Đồ Công Vụ’ (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng ‘Tin Mừng tình thương’ của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại; vì ‘bóng tối’ luôn thù nghịch ‘Ánh Sáng’. Những người sống theo ‘thế gian’ thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của họ! Tất nhiên ‘Thầy’của mình là Chúa Giêsu Kitô đã bị thù ghét, bị bắt, bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ của ‘ Thầy’qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách khác. Trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa Giêsu và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức ‘Bảo Vệ Nhân Quyền’ hay ‘Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo’, nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các tín hửu và các vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất kể ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, Thánh Phaolô và các Thánh Tông Đồ đều tử đạo, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các thành phần trong Giáo Hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nêron).

Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và cử hành nghi lễ ‘Thánh Thể’ bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi và nâng đỡ lẩn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem thêm về chuyện các ‘Hang Toại Đạo’ ‘Catacombs‘ tại Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313, khi một Hoàng Đế Rôma có tên là Constantinô Đại Đế (Constantine ‘The Great’, 280-337, theo đạo Công Giáo , Mẹ là Thánh Helene) ký hiệp ước Milan (Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó Giáo Hội mới được hưởng một thời kỳ an-bình (Paix de L’Eglise) và lúc đó, các Kitô hửu mới được hưởng chút tự do để thờ phượng Chúa và các Thánh Đường được xây cất, các buổi ‘họp mặt’ cầu nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành ‘Lễ Thánh Thể mới được thường xuyên hơn. Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa Giáng Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô hữu, khi đã được hưởng thời gian an bình để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê hương của Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và hành hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh tại Bêlem vào năm 330.

Vì ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn kiện lịch sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã chọn một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại trở lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông thời cổ hay mừng ‘ngày ánh sáng’ vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh ‘Trời Đất Giao Hoà’. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa xuống trần để giao hoà với nhân loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm ‘Preaching the Lectionary’ của R. H. Fuller). Đây chỉ là một việc làm theo ‘thuận tiện’, tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng vào dịp Tết); nhưng đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo văn hóa địa phương, đã có thói quen mừng‘sinh nhật’, và cũng muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ trong gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức của mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình cũng không thể đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích trong cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết, liền chọn một ngày để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...) Ông cụ trong gia đình chúng tôi, ngày xưa hoạt động cho Quốc Dân Đảng, khi Việt Minh nổi lên, họ mời đi họp để ‘cộng tác làm việc cứu quốc’ và từ ngày đó là biệt tích luôn. Sau đó gia đình biết chắc đã chết, nhưng không biết chết làm sao và vào ngày nào, nên đã chọn ngày ‘rời gia đình’ để con cháu ‘khói hương’ kính nhớ.
Vì ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực theo lịch sử, nên thường có những ý kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc, những người ‘Thanh Giáo’ (Puritans) đã nổ lực để yêu cầu xóa bỏ việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nổ lực đều thất bại, và việc mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như khắp nơi trên thế giới. Hơn nửa, việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa không phải chỉ đơn thuần mừng ngày ‘Sinh Nhật’ của Chúa, mà còn có ý nghiã thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn bị lễ Giáng Sinh, gọi là ‘Mùa Vọng’ (ngày xưa gọi là ‘Mùa Áp’) (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là ‘Mùa Thường Niên I’, rồi đến ‘Mùa Chay’ (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến ‘Mùa Thường Niên II’ kéo dài đến ‘Mùa Vọng’ cho một niên lịch phụng vụ mới.

Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9 tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là ‘Lễ Truyền Tin’ (Annunciation) để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người được diểm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu Thế... Và Đức Maria đã ‘Xin Vâng’ (Luca 1, 26...). Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút ‘Trời Đất Giao Hoà’, ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gioan 1,14). Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen nguyện ‘Kinh Truyền Tin’ vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều. Khi nghe tiếng ‘Chuông Nguyện’ mọi tín hữu đều ngưng các công việc để nguyện ‘Kinh Truyền Tin’ mà nhớ đến giây phút quan trọng này: ‘Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.’ Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã sáng tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút ‘huyền nhiệm’nầy; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài ‘Theo Tiếng Thiên Thần xưa Kính Chào’ của Hoàng Diệp, ‘L’Annonce faite à Marie’’ của Paul Claudel (văn hào Pháp).

Ngày nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ ‘No-en’ ‘Noel’) càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc ở các vùng hẻo lánh, và ngay cả các nước còn đang dưới chế độ ‘Cộng Sản’ như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng tiếc là ngày nay người ta đã ‘thương mại hóa’ dịp lễ này mà làm giảm đi phần nào ý nghĩa thiêng cao cả. Tuy nhiên điều ‘lạm dụng’ đó cũng không thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ đích thực trong lòng những người thành tâm thiện chí (Abusus non Tullit Usum) và họ được hưởng ‘ơn phúc lộc’ an bình trong tâm hồn và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng trong đêm Chúa Giáng Sinh:

‘Vinh Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm!’

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

Giá trị một Thánh lễ Misa


Nữ tu MARY VERONICA MURPHY
Xin hãy cùng đọc một chứng từ có thật, hết sức giản dị đơn sơ, nhưng lại quá độc đáo bất ngờ, để rồi cùng có được diệu cảm về Thánh Lễ...  

 
Cha Stanislaus là Linh Mục Hội Dòng Thánh Tâm Chúa. Ngài có một người anh làm Linh Mục Dòng Tên. Thân phụ của hai anh em này là Đại Úy kiểm lâm trong một thị trấn nhỏ của Luxemburg. Ông rất sùng đạo, vẫn đi Lễ và rước Lễ hàng ngày.
Khi nói chuyện với cha Stanislaus về thời thơ ấu của ngài, tôi nói: “Cha thật có phúc được nuôi dưỡng trong một gia đình Công Giáo đạo đức, đã có công cống hiến cho đời hai vị Linh Mục.”
Ngài đáp: “Vâng, đúng thế, nhưng không phải mọi sự đều trôi chảy như vậy từ đầu cả đâu ! Khi chúng tôi còn bé, cha tôi đã bỏ đạo, và mặc dù mẹ tôi còn đọc kinh cầu nguyện nhưng trong gia đình không một ai đi Lễ, kể cả Chúa Nhật, thể theo ý muốn của cha tôi.
Tôi nói: “Trời đất ơi ! Cha làm tôi ngỡ ngàng quá chừng. Chuyện hiếm có như vậy mà có thể xảy ra thật ư ? Vậy chứ ơn gọi làm Linh Mục từ đâu mà ra ?”
Ngài nói: “Một hôm, sau khi cha tôi đến thăm một tiệm bán thịt gần nhà thì ông đã đột nhiên thay đổi ý kiến. Câu chuyện xảy ra chiều hôm đó tại nhà hàng bàn thịt này là nguyên nhân hoán cải của cha tôi.” Tôi đáp: “Một tiệm bán thịt ! Một ơn hoán cải trong một tiệm bán thịt ! Chuyện gì đã xảy ra vậy ?”
Cha Stanislaus nói: “Ồ, đầu đuôi câu chuyện xảy ra như thế này. Cha tôi và ông chủ tiệm là một đôi bạn thân từ hồi còn bé. Khi hai người đang say sưa chuyện vãn như mọi lần thì một bà già lọm khọm bước vào.
Ông chủ tiệm ngưng nói chuyện và bước tới hỏi xem bà cụ cần gì. Bà nói bà đến xin ông một chút thịt nhưng bà không có tiền. Cha tôi chú ý lắng nghe câu chuyện bi hài giữa bà cụ và ông chủ tiệm.
Ông chủ tiệm nói: “Bà cần một chút thịt ư ? Nhưng tôi cần biết bà có thể trả cho tôi bao nhiêu tiền cái đã."
Bà cụ đáp: “Rất tiếc là tôi không có đồng xu nào cả… nhưng tôi sắp đi Lễ đây, và nếu ông muốn thì tôi sẽ dâng Thánh Lễ theo ý chỉ của ông.”
Ông chủ tiệm và cha tôi đều là người tốt bụng ( nhưng cả hai đều coi thường tôn giáo, nhất là Thánh Lễ Misa và Giáo Hội Công Giáo ) cho nên cả hai đều muốn đùa giỡn chút chơi với câu trả lời của bà già lẩm cẩm.
Ông chủ tiệm bèn nói: “Được rồi ! Đây là một miếng giấy nhá” và ông viết mấy chữ ‘Tôi đi xem lễ và dâng lễ theo ý chỉ của ông…’ rồi đưa cho bà cụ ông nói: “Cụ đi xem lễ đi và cầu nguyện theo ý chỉ của tôi nhá. Khi về, bà sẽ đưa cho tôi miếng giấy này và chúng ta sẽ xem một Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu ký thịt.”
Bà cụ tươi cười ra đi cầm theo tờ giấy. Bà biết Chúa nhân lành sẽ giúp đỡ bà. Khoảng một giờ sau, bà trở lại tiệm bán thịt. Khi nhìn thấy bà ông chủ tiệm liền nói: “Đâu, tờ giấy đâu, bà đưa cho tôi đi và chúng ta sẽ xem Thánh Lễ của bà dâng cho tôi đáng giá bao nhiêu tiền nhá !”
Bà đưa tờ giấy cho ông, ông đặt tờ giấy lên bàn cân phía tay mặt. Trên bàn cân phía trái ông để một khúc xương nhỏ, nhưng mảnh giấy có vẻ nặng hơn miếng xương của ông. Vậy là ông lấy miếng xương ra và đặt vào bàn cân bên trái một miếng thịt nhỏ. Nhưng bàn cân bên mặt vẫn nặng hơn. Ông bèn lấy một miếng thịt lớn hơn đặt trên bàn cân trái, tuy nhiên bàn cân mặt vẫn không nhúc nhích.
Đến lúc này thì cả hai ông đều cảm thấy xấu hổ vì sự nhạo báng của mình, nhưng ông chủ tiệm vẫn còn muốn tiếp tục trò chơi của ông. Ông bèn đặt một tảng thịt thật nặng lên bàn cân trái, nhưng bàn cân mặt vẫn đứng yên bất động. Ông nghĩ chắc cái cân bị trục trặc kỹ thuật thế nào đó chứ không lẽ… Ông lấy miếng giấy ra khỏi bàn cân bên mặt xem sao, tức thì bàn cân bên trái xẹp ngay xuống dưới sức nặng của tảng thịt lớn.
Ông chủ liền lấy cả hai thứ ra khỏi bàn cân, để kiểm soát kỹ lại xem cân có bị trục trặc gì không… rồi ông cân một vài thứ khác như ông vẫn làm từ trước tới nay, thì thấy cái cân hoàn hảo và rất chính xác.
Sau cùng ông chủ đảo ngược hai thứ trên bàn cân: ông đặt tờ giấy lên phía bên trái và tảng thịt lên phía bên mặt. Tuy nhiên tờ giấy vẫn nặng ký hơn tảng thịt rất nhiều.
Bực mình, ông nhẹ nhàng nói với bà cụ: “Bà cụ ơi, bây giờ bà muốn gì nào… tôi có phải đưa cho cụ cả một cái đùi cừu chăng ?”
Bỗng chốc, cả ông hàng thịt lẫn viên đại úy đều nhận ra rằng Thánh Lễ Misa thật là vô giá. Ngay lúc đó, cả hai đều được ơn soi sáng để hiểu biết rằng không thể tính được một Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu tiền.
Ông hàng thịt đã hoàn toàn hoán cải vì chuyện vừa xảy ra, và ông hứa sẽ cung cấp thịt hàng ngày miễn phí cho bà cụ. Ông giữ lời hứa. Tiếng đồn lan ra các vùng lân cận, dân nghèo khác cũng đến lãnh phần thịt hàng ngày của họ. Rồi lòng quảng đại của ông được các vùng khác biết đến. Thiên hạ cũng nói rằng phẩm chất thịt của tiệm ông rất ngon nên số doanh thu của ông tăng nhanh hơn bao giờ hết.
Cha tôi, tức ông đại úy, ngay hôm sau đã đi Nhà Thờ xem Lễ, và ông được ban cho một thánh sủng khác. Ông được ơn nhận biết Chúa Giêsu đích thực hiện diện trong Mầu Nhiệm Thánh Thể, và ngày hôm sau nữa, cả nhà chúng tôi kéo nhau đi xem Lễ hàng ngày. Trong nhà chúng tôi không khí đã đổi khác không như trước nữa.
Hạnh phúc chúng tôi được ban cho thật là vĩ đại, khôn tả xiết, và chúng tôi bắt đầu kính mến Chúa và thương yêu nhau hơn bao giờ hết. Gia đình chúng tôi bỗng trở nên một Tiểu Thiên Đàng, và tôi tin chắc rằng cha mẹ tôi đang chờ chúng tôi đến gặp các ngài trên đó!
Trích bài viết của Sr. MARY VERONICA MURPHY
Bản dịch của Louis LÊ XUÂN MAI

Lương tâm

                                                                                             (Ngọc Nga sưu tầm)
Có hai người phụ nữ tìm đến một vị đạo sĩ rất nổi tiếng là nhân đức và thánh thiện để xin một vài lời khyên bảo về con đường nhân đức.

Người phụ nữ thứ nhất mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Bà luôn nghĩ mình là một tội nhân, vì hồi còn trẻ, trong những năm chồng bà đi làm xa, bà đã thất trung với chồng. Nhưng rồi bà đã ăn năn thống hối và tiếp tục sống một cuộc sống gương mẫu trong vai trò làm mẹ cũng như làm vợ. Dầu vậy, bà vẫn không bao giờ quên được tội lỗi nặng nề ấy và lương tâm bà vẫn áy náy không yên.

Người phụ nữ thứ hai cảm thấy mình là người chính trực, vì luôn sống theo luật Chúa. Lương tâm bà bình an và không khiển trách gì bà.

Nhà đạo sĩ kiên nhẫn lắng nghe mỗi bà dốc cạn nỗi lòng. Người phụ nữ thứ nhất nức nở kể lễ và ân hận vì tội lỗi của bà quá nặng nề không thể nào được Chúa thứ tha. Trái lại, người phụ nữ thứ hai cảm thấy mình chính trực không có tội gì phải xưng thú cả. Nhà đạo sĩ liền nói với người phụ nữ thứ nhất:
Bà hãy đi tìm một hòn đá thật lớn mà sức bà có thể khiêng được đem tới đây cho tôi.

Quay sang người phụ nữ thứ hai, nhà đạo sĩ nói:
Bà hãy đi nhặt những hòn đá thật nhỏ nhiều bao nhiêu bà có thể mang được trong cái khăn choàng vai của bà rồi đem tới đây cho tôi.
Hai người phụ nữ liền mau mắn thi hành lời vị đạo sĩ dạy bảo. Người phụ nữ thứ nhất khệ nệ đem tới một hòn đá thật lớn. Còn người thứ hai với cái khăn đầy cả trăm viên đá sỏi nhỏ. Nhà đạo sĩ mĩm cười nói với hai bà:

Bây giờ tôi xin hai bà làm thêm một việc khác nữa, là các bà hãy đem trả hòn đá lớn cũng như những viên đá sỏi nhỏ kia trở về đúng chỗ cũ của nó. Ðiều quan trọng là phải đúng với chỗ mà các bà đã nhặt nó.
Một lần nữa, hai người phụ nữ mau mắn thi hành mệnh lệnh của nhà đạo sĩ. Người phụ nữ thứ nhất tìm ngay được chỗ cũ của hòn đá mà bà đã lấy bởi vì chỉ có một hòn duy nhất. Trái lại, người phụ nữ thứ hai loanh quanh lẩn quẩn cả giờ, nhưng vô ích, bởi vì bà không tài nào mà nhớ hết được đúng chỗ của mỗi viên đá sỏi ấy. Bấy giờ bà đành trở lai với cái khăn choàng vai đầy những viên đá sỏi nhỏ ấy.

Vị đạo sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:
Bà đã đem trả lại chỗ cũ của hòn đá đó một cách dễ dàng. Cũng một cách tương tự, với tội lỗi của bà, bà đã biết khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi mình nặng nề và đã thành tâm ăn năn thống hối, bà đã được Thiên Chúa thương tha thứ cho bà, bây giờ bà không nên lo lắng áy náy chi nữa.
Quay sang người phụ nữ thứ hai vị đạo sĩ nói tiếp:
Còn bà như đã không thể trả lại được chỗ cũ của những viên đá sỏi, bà cũng không nhìn thấy được các lỗi lầm nho nhỏ để ăn năn thống hối.


Quý vị và các bạn thân mến,

Lời chỉ giáo của nhà đạo sĩ thật khôn ngoan và cũng là lời giải đáp cho những người hay thắc mắc mỗi lần nghe nói đến bí tích hòa giải. Họ thường hỏi phải xưng thú tội lỗi gì đây, thực ra cũng không có tội gì nặng nề lắm, nhưng chính sự chểnh mảng không quan tâm những lỗi lầm nho nhỏ, những khuyết điểm thầm kín, dần dần họ trở thành chai đá mất đi sự bén nhạy của lương tâm để phân biệt điều hoàn thiện và việc gian ác.

Lạy Chúa, trước nhan thánh Chúa, trong sự lặng tĩnh của tâm hồn con nghe tiếng Chúa khiển trách con: Hãy lấy cái xà trong mắt đã rồi mới lấy cái rác nơi mắt anh em. Con thật mù quáng biết bao khi con chỉ nhìn thấy tội lỗi của người khác nhưng lại không nhìn ra tội lỗi thầm kín của con.

Lạy Chúa, Chúa thấy rõ sự yếu hèn hạn hẹp và tính hướng chiều về sự tội lỗi của con. Xin Chúa giúp con khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi con để được Chúa thanh tẩy và con biết đáp lại tình yêu Chúa. Yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả chính bản thân con. Amen.

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

THÁNH PHANXICÔ VÀ HOÀ BÌNH


Lm Nguyễn Hồng Giáo ofm

Ngày nay, khi hoà bình thế giới lại bị đe dọa trầm trọng và loài người đứng trước những vấn đề to lớn hệ trọng như nạn khủng bố, chạy đua vũ trang, ô nhiễm môi trường sinh sống, bất công trong các quan hệ quốc tế và đặc biệt trong các trao đổi thương mại giữa các nước giàu và các nước nghèo v.v. thì rất nhiều người trong Giáo Hội Công Giáo và cả ngoài Giáo Hội lại hướng nhìn về Thánh Phanxicô Assisi. Tại sao? Một vị thánh sống cách đây tám thế kỷ, thử hỏi Ngài có gì để nói với chúng ta hôm nay trước những vấn đề nóng bỏng như trên? Ngài có thể dạy ta điều gì, đặc biệt trong sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình?
Năm 1982, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 800 của vị Thánh thành Assisi, ông Kurt Waldheim lúc bấy giờ là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đã gửi cho Dòng Phanxicô một bức thông điệp ngắn nguyên văn như sau:
“Cuộc kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô phải là một nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta. Qua việc làm cũng như lời dạy của Ngài, thánh Phanxicô đã trở nên biểu tượng cho Hoà bình, cho việc bảo vệ môi sinh và cho tình thương đối với người nghèo. Chúng tôi thấy sứ điệp cuả Ngài được vang vọngộai trong một số lý tưởng cao đẹp nhất của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
“Ngài đã chủ trương Hoà bình giữa các dân tộc và yêu cầu các môn sinh của ngài đừng mang vũ khí- Ngày nay Liên Hiệp Quốc hoạt động cho hoà bình và cho việc giải trừ quân bị giữa các quốc gia. Ngài đã biểu lộ tình thương và lòng tôn trọng đối với thiên nhiên và mọi sinh vật- Liên Hiệp Quốc cũng nổ lực cho công cuộc duy trì và bảo vệ môi sinh ở mọi nơi. Ngài là vị thánh của người nghèo- Liên Hiệp Quốc tìm cách chấm dứt nỗi thống khổ và tình trạng bóc lột của hàng triệu con người đang hứng chịu, và Liên Hiệp quốc dứng ra bênh vực quyền lợi người nghèo, người bất túc và nạn nhân của bất công và kỳ thị.
“Thật là đúng lúc để nhắc lại rằng bản huấn thị phổ quát đầu tiên của nhân loại là Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, đã được ký kết tại thành phố mang tên vị thánh, đó là thành phố San Francisco.
“Còn nhiều việc phải làm để thực hiện giấc mơ của Thánh Phanxicô về một thế giới hoà bình, công bằng và hoà hợp…”
Như chúng ta thấy, ông Kurt Waldheim đã nhấn mạnh tới tính hợp thời của sứ điệp Thánh Phanxicô.
Vậy để trả lời những câu hỏi trên đây, thiết tưởng không gì hơn là khai triển và minh hoạ những lời tuyên bố của ông Tổng Thư Ký.

Phanxicô, con người của hoà bình và hoà giải

Không những Phanxicô mơ về một thế giới hoà bình và hoà hợp mà hơn nữa Ngài đã dấn thân cổ võ và hoạt động cho một thế giới như thế.
Năm 1226, vào những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh, Phanxicô rất đau lòng khi nghe tin Đức Giám Mục và ông Thị trưởng Assisi kình địch nhau. Vị Giám mục thì ra vạ tuyệt thông cho ông thị trưởng, còn ông này thì cấm không ai được mua bán hoặc ký kết khế ước với Đức Cha. Phanxiô nói với anh em:
“Thật là xấu hổ cho chúng ta những người làm tôi Chúa, vị Đức giám mục và ông Thị trưởng thù ghét nhau như thế mà chẳng ai đứng ra hoà giải” (Gương trọn lành, 101).
Người ta tự hỏi: thế bản thân Ngài làm được gì khi mà đoi mắt đã gần mù và thân xác kiệt quệ phải nằm một chỗ? Phanxicô đã làm một việc bất ngờ và có thể nói “rất Phanxicô”, đó là thêm vào bài ca Vạn vật mà Ngài đã sáng tác trước đó ít lâu, một phiên khúc ca ngợi Hoà bình và Tha thứ, rồi gửi anh em đi mời ông Thị trưởng tới Toà Giám mục. Khi ông tới nơi và hai người gặp nhau, các môn đệ thánh Phanxicô nhân danh Ngài, cất tiếng hát bài ca Vạn vật cúng với phiên khúc mới. Và điều ít ai ngờ đã xảy tới: khi tiếng hát vừa dứt, ông Thị trưởng và Đức Giám mục nắm tay nhau nói lời hoà giải và ôm hôn nhau thắm thiết.
Hoà bình là một trong những giá trị cơ bản mà thánh Phanxicô ấp ủ và thực hiện suốt cả cuộc đời. Là một người sống Tin Mừng triệt để, Ngài không thể làm ngơ trước một xã hội xâu xé, đầy bất công và hận thù, bạo lực và chiến tranh. Mỗi lần bắt đầu giảng, Ngài đều nhắc tới Hoà bình với lời chào: “Xin Chúa ban bình an cho anh chị em” (1 Cel 23). Ngài quan niệm nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng như một sứ mạng hoà bình và giao cho các môn đệ sứ mạng đó. Ngài nói với họ:
“Anh em rao giảng hoà bình bằng lời nói, thì cũng phải an hoà trong lòng mình. Đừng làm dịp cho người kách tức giận và vấp ngã, nhưng chớ gì mọi người thấy thái độ hiền hoà của anh em cũng sẽ biết sống hoà bình, nhân hậu và thuận hoà, bởi vì ơn gọi của chúng ta là săn sóc người bị thương, băng bó kẻ bị dập gãy và kêu gọi kẻ lầm lạc trở về”. (Ba người bạn 58).
Bản thân Ngài nhiều lần can thiệp để hoà giải những phe nhóm kình địch và những  thành phố lâm chiến, như Pêrusia, Bologna, Arezzo, Sienna và Assisi.
Rất tiêu biểu cho thái độ của Thánh Phanxicô là chuyến đi Palestin cùng với đoàn quân Thập Tự năm 1219. Vì tinh thần tôn trọng con người và các nền văn hoá, Phanxicô cảm thấy ngỡ ngàng phần nào trước chỉ thị của Đức Giáo Hoàng Innocentio III loan báo cuộc Thập Tự chinh lần thứ 5 chống lại người Hồi Giáo nhằm chiếm lại Thánh Địa. Bởi thế, tuy Ngài cùng đi nhưng không phải như một chiến binh, mà trong tư cách một sứ giả Hoà Bình. Không vũ khí tự vệ, Ngài đến trước đạo quân Hồi giáo và xin phép được gặp vua Malik al-Kamil vua Ai Cập. Sử sách kể rằng thái độ bao dung và kính trọng của Thánh Phanxicô cũng như tinh thần yêu chuộng hoà bình của ngài đã để lại ấn tượng tốt đẹp sâu sắc và hơn nữa đã gây được lòng thiện cảm của nhà Vua. Tuy Phanxicô đã không thành công hơn, nhưng cử chỉ của Ngài đã mở đường cho một cach thức quan hệ mới với người Hồi giáo, dựa trên sự hiểu biết, thông cảm và đối thoại thay cho sức mạnh, dù là sức mạnh của vũ khí, của quyền hành, hay của con người tự biết là có chân lý và có văn hoá để ban phát cho kẻ khác. Bộ Luật Dòng của Thánh Phanxicô là bộ luật dòng đầu tiên dành nguyên cả một chương để nói về những tu sĩ đi dến giữa người Hồi giáo. Thánh Phanxicô viết rõ là ”đến giữa” (inter saracenos) chứ không phải “đi tới” (ad saracenos). Điều đó có nghĩa là người Hồi giáo tiên vàn không phải là một mục tiêu để chinh phục cho kỳ được, mà là người để các anh em cùng sống với. Bởi thế, thánh nhân vạch ra cho anh em thừa sai hai cách truyền giáo: một là sống hiền lành, hiếu hoà không tranh luận hoặc kiện tụng, sống khiêm nhường tùng phục mọi người vì Chúa, và nhận mình là người Công giáo. Hai là nếu thấy đó là thánh ý Chúa thì mới rao giảng Lời Chúa (Bản Luật II, ch.16). Qua kiểu nói của thánh Phanxicô, ta thấy rõ là cách thứ nhất là cách phổ biến và ưu tiên, cách thứ hai (tức là rao giảng) là cách đặc biệt, cần được Chúa tỏ cho biết mới dùng tới.
Bất kỳ ở đâu người môn đệ Phanxicơ phải ăn ở như những người “anh em” và những người “hèn mọn” đúng như tên gọi của họ là Anh Em Hèn Mọn. Ngài viết trong luật dòng: “Tôi khuyên anh em khi đi ra giữa đời, đừng gây sự và cãi vã với ai, cũng đừng xét đoán ai, những hãy hiền lành, hiếu hoà và từ tốn, nhân hậu và khiêm nhường, ăn nói tử tế với hết mọi người sao cho xứng hợp” (Luật I, ch.3).
Trong bản Luật Dòng Ba, tức là luật cho những người ở bậc giáo dân, sống trong gia đình nhưng theo tinh thần thánh Phanxicô, có một qui đinh rất đặc biệt là cấm tất cả các thành viên dòng ba mang vũ khí và tuyên thệ. Trong chế độ phong kiến thời ấy, người dân phải tuyên thệ trung thành với các lãnh chúa. Hậu quả là các lãnh chúa phải bảo vệ con dân của mình, song nghĩa vụ của người dân còn nặng nề gấp bội: họ phải thần phục lãnh chúa, phải nộp sưu nộp thuế, và phải mang vũ khí đánh giặc cho lãnh chúa. Mà thời đó, chiến tranh giữa các lãnh chúa là việc quá thông thường. Một qui định như qui định của luật Dòng Ba Phanxicô, có nghĩa thực tế như một sự từ chối trật tự phong kiến và phản đối chiến tranh. Và dĩ nhiên là các thành viên Dòng Ba bị các lãnh chúa bắt bơ, nhưng bằng nhiều sắc chỉ liên tục, các Đức Giáo Hoàng Hônôriô III và Grêgôriô IX đã bảo vệ họ thành công.
Quả thực thánh Phanxiô đã góp phần to lớn vào việc hoà giải trong môi trường Kitô giáo và làm dịu bớt mối quan hệ thù nghịch giữa Kitô giáo và Hồi Giáo trong thời đại Ngài, bằng những hành động cụ thể và nhất là bằng cách gợi ra một mô hình xã hội mới, dựa trên một cái nhìn mới mẻ về con người, về xã hội và về thiên nhiên tạo vật.

Thánh Phanxicô người anh em của mọi người và mọi tạo vật

Hoạt động ráo riết của thánh Phanxiô cho Hoà Bình phát xuất từ một ý thức hết sức mãnh liệt về toàn thể loài người và đến cả vạn vật như một gia đình, và về thế giới này như một mái nhà chung. Người ta phải sống với nhau như anh em. Hơn nữa con người cũng phải yêu mến và kính trọng thiên nhiên tạo vật như phát sinh cùng một nguồn gốc với mình. Phanxicô có một khả năng thông cảm và hiệp thông lạ lùng.
Đối lại với một xã hội xây dựng bằng tôn ti trật tự, và trên sự thống trị của tiền bạc, Phanxiô phác ra một mô hình xã hội hoàn toàn khác và theo cách thức riêng của mình, ngài bắt đầu xây dựng nó.
Trong Bản Di Chúc của Ngài, khi quay nhìn lại bước đường mình đã đi, thánh nhân viết: “Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời sám hối như thế này. Khi tôi còn sống trong tội lỗi, trông thấy người phung đối với tôi là điều rất ghê tởm, nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến giữa họ và tôi đã phục vụ họ… Ít lâu sau đó tôi rời bỏ thế gian”.
Điều đáng chú ý là: đối với thánh Phanxicô, cuộc gặp gỡ với người phung là một kinh nghiệm gặp gỡ Chúa có tính quyết định. Người phung tiêu biểu cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội, và hơn nữa còn bị xã hội loại trừ.
Chúng ta biết rằng hệ thống phong kiến là một cơ cấu chặt chẽ từ trên xuống dưới, trong đó mỗi cá nhân, mỗi giai cấp có chỗ đứng rõ ràng, bất di bất dịch. Giai cấp thống trị là các lãnh chúa, các nhà quý tộc. Giai cấp bị trị, gọi chung là thứ dân, đại đa số là nông dân nghèo, lệ thuộc một lãnh chúa, khai thác ruộng đất của lãnh chúa và giao ước trung thành với lãnh chúa về mặt kinh tế và xã hội.
Vào thời thánh Phanxicô, xuất hiện một giai cấp thứ ba là giai cấp tư sản thành thị nhờ buôn bán làm giàu mà bắt đầu trở nên một lực lượng chính trị xã hội mới. Dấu hiệu giàu sang của giai cấp quý tộc phong kiến là ruộng đất và chức tước, còn dấu hiệu giàu sang của giai cấp tư sản thành thị là tiền bạc.
Giai cấp tư sản đã liên kết với những người nghèo khổ ở thành thị để lập nên Công Xã tự trị để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng thành công rồi, xã hội công xã cũng chia thành hai giai cấp: Giai cấp thống trị gọi là “đại nhân” (majores) gồm những người giàu có, nắm quyền kinh tế và chính trị trong tay, và giai cấp bị trị, gọi là những “người hèn mọn” (minores), gồm những thợ thủ công, những người làm thuê và những nông dân bỏ trốn làng mạc và chế độ nông nô ra sinh sống ở thành thị.
Phanxicô xuất thân từ một gia đình thương gia giàu có, tức là thuộc giai cấp tư sản thành thị. Lúc đầu ngài chấp nhận cái xã hội đó và những lý tưởng của nó là: tiền tài quyền thế và danh vọng. Nhưng rồi dần dần ngài cảm thấy không thoả mãn với những lý tưởng đó. Ngài bắt đầu rút lui ra khỏi đời sống xã hội và suy nghĩ. Chính lúc đó ngài gặp người phung. Lui tới săn sóc hạng người này Phanxicô khám phá ra khía cạnh nhân bản của nỗi cùng khổ của họ và giá trị của họ. Ngài bắt đầu thấy rằng đời sống xã hội ở Assisi là không công bằng. Ngài không thích ứng với thực tại bởi vì còn biết bao kẻ bị loại trừ.
Vậy gặp gỡ người phung đối với Phanxicô là đoạn tuyệt với xã hội hiện có. Ngài viết: “Ít lâu sau khi gặp người phung, tôi từ bỏ thế gian”. Thế gian đây có nghĩa là đời sống tội lỗi , nhưng đồng thời cũng là cái thế giới của xã hội Assisi. Cuộc trở lại của ngài cũng là một sự thay đổi giai cấp.
Bây giờ ngài đến ở giữa người nghèo khổ, lúc đầu cốt để phục vụ họ, rồi đần dần đồng hóa mình với họ. Người đương thời gọi ngài với cái tên rất đúng là “Anh Nghèo” (poverello). Còn ngày nay người ta quen gọi ngài là Vị Thánh Nghèo.
Phanxicô đã nghiệm ra rằng muốn trở thành người anh em của mọi người và muốn được mọi người nhìn nhận điều đó, cần phải trở nên người hèn mọn, người cùng rốt, không còn gì làm cho ai bị đe dọa, chỉ còn duy nhất một trái tim mở rộng và đôi tay sẵn sàng phục vụ mà thôi.
Chính vì thế mà đặt tên cho Hội Dòng của mình là Dòng Anh Em Hèn Mọn (Fratres Minores). Tên gọi này rõ ràng có ý nghĩa xã hội. Phanxicô muốn thực sự xác định vị trí của mình và anh em mình giữa hạng thứ dân thành thị. Và Ngài bắt dầu xây dựng cộng đoàn các môn đệ của Ngài theo mô hình xã hội mới mà Ngài mơ tưởng: Ở đây tất cả mọi người đều là anh em, hoàn toàn bình đẳng, không phân cấp, không quyền hành chức tước, không tiền bạc của cải. Phanxicô viết trong luật dòng: “Vì Đức Ai, anh em hãy tự nguyện phục vụ nhau và vâng lời nhau” (Luật I, ch.6).
Cộng đoàn huynh đệ phải mở rộng ra với hết thảy mọi người. Truyện cổ viết rằng, ngày kia Bà Chúa Nghèo đền thăm viếng nơi anh em ở, Bà hỏi Tu viện anh em ở đâu, thì anh em đã dẫn Bà lên một ngọn đồi, đưa tay chỉ về tứ phía chân trời mênh mông và nói: “Đấy là Tu viện của chúng tôi”. Ở đâu anh em cũng phải tỏ ra là anh em với nhau mà hơn nữa, còn là anh em của mọi người trong thái độ thân ái, kính trọng, hiền hòa và tùng phục. Nhất là anh em phải vui mừng khi được ở giữa những người nghèo khó, hèn mọn và bệnh tật.
“Phanxicô có một cái nhìn về con người rất lạc quan trong cơ bản. Không được đẩy ai ra bên lề xã hội, dù là người tội lỗi. Mỗi người, trong tư cách là ngưòi, đều là hình ảnh của Đức Kitô và một phản chiếu của Chúa Cha. Quan hệ của Ngài với tha nhân làm bằng một lòng kính trọng vô điều kiện (…) Ngài mang tới trong Giáo Hội một sự nhạy cảm đối với con người và các vấn đề của con người” (Thư khai mạc NămThánh Phanxicô 1981-1982, của các Bề trên Cả Gia đình Phan sinh, phần I, số2).
Tình huynh đệ của Phanxicô không dừng lại nơi loài người, nhưng còn nới rộng ra tới mọi tạo vật, sống động cũng như vô tri vô giác trong vũ trụ. Ngài không coi tạo vật là xấu xa, nguy hiểm phải đề phòng. Ngài cũng không có thái độ chủ nhân ông, nhìn tạo vật chỉ là đối tượng cho mình khai thác tùy thích. Nhưng ngài thiết lập một mối quan hệ thân ái, hài hòa với mọi vật. Ngài đã sáng tác Bài ca Vạn Vật để ca ngợi mọi công trình tạo dựng của Thiên Chúa: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió, nước, lửa, trái đất với ngàn hoa, cây cỏ và trái trăng. Ngài gọi tạo vật là anh, chị : anh Cá, anh Chim, chị Trăng, chị Nước vv…, không chỉ theo nghĩa thi phú, mà theo một cảm nghiệm sâu xa rằng tất cả đều là công trình của Cha trên trời và mang dấu ấn của tình thương.
Phanxicô muồn người ta quí chuộng thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên; ngài dạy các môn đệ mình khi đốn cây sử dụng theo nhu cầu, thì đừng chặt tận gốc, để cây còn có thể đâm chồi mới. Con người thời đại chúng ta có thể học biết bao nhiêu điều nơi thái độ của thánh nhân. Chắc chắn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nghĩ như thế khi ban Tông Thư ngày 29-9-1979 công bố thánh Phanxicô là bổn mạng các nhà môi sinh học.
Kết nghĩa anh em với vạn vật, phải chăng là chọn một vũ trụ quan trong đó đối thoại phải loại trừ đối đầu và chung cuộc đoàn kết hiệp nhất phải thắng vượt xâu xé, chia lìa? Phanxicô luôn quan niệm sống là sống với, sống chung chan hòa.

Kết luận

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô trong thư gửi Dòng Phanxicô nhân dịp lễ sinh nhật lần thứ 800 của vị Thánh Nghèo đã viết rằng trong suốt giòng lịch sử”thiên hạ vẫn luôn luôn ngưỡng mộ và yêu mến thánh nhân vì họ thấy thực hiện nơi ngài một cách lạ lùng, điều mà họ ao ước cho mình, trên hết mọi sự trong đời: đó là niềm vui, sự tự do, hòa bình, hòa thuận và hòa hợp giữa loài người và giữa các dân tộc”.
Thời đại thánh Phanxicô không phải là thời đại của chúng ta. Các cuộc chiến giữa các đô thị thời đại ngài không có gì so sánh được với các cuộc chiến tranh của thời đại nguyên tử chúng ta.
Và tất nhiên là chúng ta cũng không thể nào lặp lại các giải pháp của ngài cho các vấn đề của chúng ta. Tuy nhiên cách nhìn của ngài và các thái độ của ngài là một nguồn cảm hứng và động viên mạnh mẽ cho con người hôm nay, để ra sức xây dựng một thế giới tự do hơn, huynh đệ, công bằng, hòa bình và hòa hợp hơn.

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

Con người thật khó hiểu

Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! " (Mt 16, 22)


Suy gẫm về vạn vật, về đời người, ta thấy Thiên Chúa quả là mầu nhiệm. Đường lối và cách hành xử thật khó hiểu. Ngài làm kiểu gì mà suy mãi chưa ra, nghĩ mãi cũng không hiểu, đối chiếu rồi mà vẫn chưa sáng. Nói thế không sai, vì Thiên Chúa khác con người.
Nhưng xét cho cùng, con người cũng phức tạp và khó hiểu không kém.

Phức tạp vì con người không thống nhất đời sống, ngôn hành bất nhất. Không thống nhất giữa cái là và cái làm, nói vậy mà không phải vậy. “Điều con người muốn thì lại không làm, điều không muốn thì lại làm” (Rm 7,15). Con người không chấp nhận thân phận của mình. Vì vậy, con người luôn bị xung khắc giữa chọn lựa, chấp nhận bản thân và chấp nhận Thiên Chúa. Con người luôn có khuynh hướng đấu tranh để chứng tỏ bản lãnh của mình là mạnh, là nhất, có đủ mọi điều kiện làm chủ đời mình, làm chủ thế giới. Vì lẽ ấy mà con người rất chậm trong việc đón nhận sự thật, đón nhận chân lý.
 Con người thật khó hiểu...

Khi Gioan tiền hô đến với họ trong chay tịnh, ăn uống nghiêm ngặt, đời sống khắc khổ, lương thực bằng châu chấu và mật ong, mặc áo nhặm da thú thì họ gọi là “bị quỉ ám”. Còn Chúa Giêsu đến cũng ăn cũng uống, cuộc sống không có gì dị biệt, thì bị kết án là mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi.

Khi Chúa Giêsu đến, đưa ra luật tình yêu thì người biệt phái cứ khư khư lấy luật công bằng, luật “mắt đền mắt, răng đền răng”.

Khi Chúa Giêsu dạy lúc chay tịnh cần tắm rửa cho sạch, xức dầu cho thơm, cuộc sống hãy lạc quan yêu đời, vui tươi phấn khởi, thì con người lại nhăn nhó, âu sầu, phiền não.

Khi Chúa Giêsu dạy cần chay tịnh từ căn bản bên trong tâm hồn, hãy xé lòng chứ đừng xé áo, Ngài nhắm đến chất lượng, thì con người lại nhắm đến số lượng, đến hình thức bên ngoài, ăn chay mấy lần, ăn chay ở đâu…

Khi cầu nguyện Chúa Giêsu dạy phải âm thầm, đóng kín cửa phòng và cửa lòng lại để chỉ còn một mình đối diện với Đấng thấu suốt mọi bí ẩn biết mà thôi, thì con người lại phô trưởng việc cầu nguyện ở giữa đường giữa phố, ở chốn đông người để nhiều người biết đến.
Con người thật khó hiểu...

Khi Chúa Giêsu cầu nguyện và dạy các tông đồ là hãy xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, thì con người lại khoe khoang và xin cho chính mình.

Khi Chúa Giêsu làm những phép lạ để phục vụ cho con người được ấm no, khoẻ mạnh, được chữa lành và được sống lại, thì con người lại nói là ông ấy dựa vào tướng quỷ mà trừ quỷ.

Khi Chúa Giêsu dạy lời hằng sống, nói lời chân thật, thì con người cho là chói tai, khó nghe, không thể chấp nhận, rồi bỏ đi.

Khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho Lazarô sống lại thì con người lại quyết định giết cả ông luôn.

Khi Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá vì tội lỗi của con người thì con người lại thách thức cứ nhảy xuống khỏi cây thập giá đi rồi sẽ tin, hay như thầy lang ơi hãy tự cứu mình đi.

Khi Chúa Giêsu sống lại thì họ nói là xác Chúa bị ăn cắp (Mt 28,13).
Con người thật khó hiểu...

"Không phải anh em chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15,16).  Thiên Chúa Đấng khôn ngoan đã chọn và hướng dẫn con người, thì con người lại tưởng rằng mình đủ sáng suốt trong chọn Chúa, rồi dễ bực tức khi thực tế xảy đến, lúc Chúa làm không theo con đường mình đã đặt ra.

"Không phải là tôi sống, chính là Chúa Kitô đang sống trong tôi" (Gl 2,20). Vậy mà con người tưởng rằng mình tự lo liệu, giải quyết được mọi vấn đề cho đời mình với những bon chen vun góp đủ thứ rồi coi đó là bảo đảm để tự kiêu, không cần phải cần đến ai hay Chúa nào cả.

“Không phải con người đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương con người trước" (1Ga 4,10). Con người nghĩ rằng mình có đi lễ, có đọc nhiều kinh, làm một số việc đạo đức và bác ái thì coi là mình đã yêu mến Thiên Chúa trước và đủ rồi.

“Thầy đã yêu thương anh em, vậy anh em cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 15,12). Một vài nghĩa cử phục vụ, chia sẻ thì dễ coi đó là lớn lao, là đi tiên phong trong việc yêu thương.

"Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng hãy tha thứ cho nhau" (Cl 3,13). Con người cứ nghĩ mình quảng đại, bao dung, là tha thứ đủ, là nhiều, đến 7 lần một ngày. Không phải, bảy mươi lần bảy…
 Con người thật khó hiểu...

Chúa nói ta nghe, nhưng thực tế ta nói cho Chúa nghe là chính.

Gặp Chúa là để Chúa làm và biến đổi, thì ta lại khác làm và tìm cách biến đổi Chúa theo dự định của mình.

Gặp Chúa để khao khát tìm Thánh ý, thì ta lại tìm mọi cách để Thiên Chúa nghe và thực hiện chương trình của mình.

Thiên Chúa khôn ngoan hơn con người thì con người lại coi đó là điên rồ.

Con người tưởng rằng mình đang đứng thì có nghĩa là vững, không, con người có thể té ngã bất cứ lúc nào. Vì khi tự cho mình là mạnh thì lúc đó mình yếu.

Thánh Phaolô tông đồ nói cho giáo đoàn Corintô thật hay : “gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ” (1Cr 15,43). Kinh hoà bình của thánh Phaxicô cũng hay không kém : "Tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ”.
 Con người thật khó hiểu...

Chúa nói mọi sự đều có thể, thì con người lại cho là không thể.

“Hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28), thì con người lại kêu mệt mỏi, nặng nề, quá sức.

“Anh em hãy mang lấy ách của Ta, học với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường”(Mt 11,29), thì con người lại kêu là vất vả, khổ cực.

“Không có tình yêu nào quý hơn người hiến mạng sống vì người mình yêu”(Ga 15,13), thì con người lại than phiền mình chẳng được ai yêu thương, quan tâm giúp đỡ.

“Không có Thầy, anh em không làm gì được” (Ga 15,5), “ơn của Ta đủ cho con” (2Cr 12,9), thì con người lại không muốn trông mong vào điều đó, hay không thể cậy dựa vào đó để bước đi .

Chúa Giêsu nói đừng sợ, thì con người lại sợ hãi, lại đóng kín cửa phòng, nản lòng, bỏ cuộc, về quê…
 Ôi, con người thật khó hiểu…
(Nguồn: Thanh Phương)

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

Tâm sự với Mẹ.

Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em. (Lc 1, 45)

Khi xưa, Mẹ đã tin rằng những gì Thiên Chúa nói với Mẹ là sự thật.
Mẹ đã trung tín hoàn toàn với lời Xin Vâng của Mẹ, bất chấp những dằn xé "chết người", bất chấp những trở ngại xem chừng chỉ dẫn tới diệt vong.
Con tự hỏi Mẹ đã như thế nào, đã nghĩ gì khi những lời hứa của Thiên Chúa trở thành sự thật. Và sự thật ấy lại không mang đến những kết quả nằm trong sự suy tưởng của con người.
Ngày nay, con cũng rất bối rối trước những quyết định có thể dẫn nghịch cảnh. Con cố suy nghĩ và học theo Mẹ, nhưng chưa được bao nhiêu. Con đường lữ hành đức tin còn nhiều bóng tối quá. Con tự nhũ: khi xưa chắc Mẹ cũng thế, bởi vì trước những gì khó hiểu, Mẹ đã thường GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM CÁC ĐIỀU ẤY TRONG LÒNG.
Lạy Mẹ Maria, xin nâng đỡ đức tin còn mỏng dòn của con.
Amen.

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

Cầu nguyện

Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con." Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." Bấy giờ Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi. (Mt 15, 26-28)

Trong khi cầu nguyện, không phải sự lãi nhãi như vẹt sẽ giúp ta nhận được ơn, nhưng là cầu nguyện kiên trì với một đức tin sáng suốt, một đức tin có ẩn chứa một lòng mến sâu xa.

Cũng có thể, đó là một đức tin hơi "điên khùng" một chút. Tin vào những dấu chỉ xem ra có vẻ bâng quơ, như chạm vào gấu áo. Hoặc, tin vào một ưng thuận bằng lời không có gì bảo chứng, con hãy về đi lòng tin của con đã cứu chữa con.

Thiết nghĩ, vấn đề không còn phải ở dấu hiệu đáp trả nữa, mà là lòng yêu mến của ta đối với Đấng mà ta hướng đến. Ta cần thể hiện trọn vẹn sự tín thác của ta nơi Người. Và nếu như thế, mọi trở ngại trong đời sống chỉ là cơ hội để ta minh chứng sự tín thác đó.

Trong khi chữa bệnh, Chúa Giêsu đều căn cứ vào lòng tin của người bệnh để ra quyết định. Người còn cho biết nếu lòng tin của ta chỉ cần bằng hạt cải thôi thì có thể dời non lấp biển. Khả năng đó là một kho tàng quý báu mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người từ lâu lắm rồi. Ấy vậy, con người đã không biết sử dụng, không biết giữ gìn và phát huy nhưng ngược lại, con người đặt hết đồng vốn đức tin của mình vào thế giới vật chất. Chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe, chỉ thật sự chiêm ngắm ... những sản phẩm thương mại, chỉ khắc cốt ghi tâm những món hàng và bảng giá ở siêu thị...(?)
Lạy Chúa, xin nâng đỡ lòng kém tin của chúng con.
Xin giúp chúng con luôn nhớ rằng Chúa là Đấng Quan Phòng và ban cho chúng con mọi thứ trong cuộc sống của chúng con. Chính vì thế, dù sống trong thế giới vật chất nhưng lòng chúng con vẫn luôn hướng về Chúa. Và đặt để Chúa là cùng đích của đời con. Amen

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Lòng tin trong cuộc sống

Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! " (Mt 14, 30)

Lạy Chúa, biết bao lần con đi theo Chúa với một tâm tình hết sức bồng bột. Con cả tin vào những sự nổi bật của phép lạ hơn là tin vào Chúa. Biết bao lần, con quá chú trọng vào công việc của Chúa, còn sự kết hợp nội tâm với Chúa thì con "để từ từ tính". Chính vậy, khi phải đối đầu với thử thách, gian nan, thì con cũng "bắt đầu nản".

Lạy Chúa, xin đoái thương đến lòng kém tin của con. Dù là thất bại hay thành công, dù hoàn cảnh có vui mừng hay sầu khổ, xin cho con luôn biết tìm thấy Chúa trong mọi sự.
Con xác tín rằng, Chúa đã nhập thể, nhập thể vào mọi nỗi vui buồn, thống khổ của đời người. Vì vậy, trong những hoàn cảnh tăm tối nhất thì vẫn luôn có sự hiện diện của Ngài. Xin cho con thêm nghị lực để giữ được xác tín này.

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Có Chúa trong cuộc đời

Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14, 27) 

Càng sống, con càng nghiệm thấy sự yếu đuối và nhỏ bé của chính mình, ít ra là con không thắng nổi chính con. Trong hàng tá những sự kiện xảy đến trong đời sống, con luôn xoay sở và thường khi đánh mất chính mình trong những quyết định qui hướng về cái "tôi".
Con có thể phớt lờ một cánh tay gầy guộc đang trông chờ sự giúp đỡ. Con có thể "lạnh lùng" trước một người đang đau khổ và cần đến sự an ủi của con. Con sẵn sàng "bào chữa" mọi hoạt động của mình với 1001 lý do chính đáng để không phải nhún tay vào một việc gì mà không có lợi cho con, và còn nhiều hơn thế trong thẳm sâu tâm hồn con mà chỉ có con và ... Chúa biết.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn vững tin rằng Chúa luôn hiện diện với chúng con, để chúng con luôn bình an vững bước đi trong con đường trần thế này. Amen.

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Chấp nhận sự khác biệt

" ... Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện." (Mt 13, 26)

Hòa Lan là một nước nổi tiếng về hoa. Ở phía bắc Hòa Lan, có những cánh đồng hoa chạy dài tắp tít vượt cả tầm nhãn giới. Nhiều loại hoa sặc sỡ tuyệt đẹp làm say mê khách du lịch. Phía nam của Hòa Lan, trái lại, chỉ có những cánh đồng lúa mì bát ngát và khi lúa chín thì khắp nơi chỉ còn là một màu vàng ối làm nổi bật màu đỏ tím của những bông hoa mồng gà.
Cảnh đó đẹp với thi sĩ và họa sĩ nhưng rất đáng buồn đối với nông gia vì mồng gà càng sặc sỡ thì vụ lúa càng kém. Chẳng có cách nào nhổ hết được những cây mồng gà này mà không làm hư hại lúa, đằng khác hoa mồng gà càng nhiều và càng đẹp thì khách du lịch càng làm hư hại lúa nhiều, mỗi khi họ nhảy xuống ruộng để hái hoa.
Sự chung đụng của lúa mì và hoa mồng gà: đó là bức tranh tuyệt hảo của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng lúa mì để nuôi sống chúng ta, nhưng Người cũng cho hoa mồng gà mọc lên để làm vui mắt chúng ta. Có lúa mì thì cũng có hoa mồng gà. Có nhà nông thì cũng có thi sĩ, họa sĩ.
Thiên Chúa cho nắng mưa hòa nhịp với nhau. Người nông gia không thể đòi hỏi chỉ có mưa cho lúa tốt. Người nghệ sĩ không thể đòi hỏi chỉ có ánh mặt trời... Sống là biết chấp nhận sự đa diện của vũ trụ như một bức tranh tuyệt hảo. Sống là biết nhận lấy đau khổ, mất mát của mình làm hạnh phúc cho người khác.
                                                                                                                                (Sưu tầm)

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Đôi Cánh Thiên Thần

" Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục." (Mt 13, 8)

Để có thể trở nên mảnh đất tốt cho Lời Chúa trổ sinh hoa quả, đôi khi chúng ta chỉ cần thực hiện điều đơn giản, nhưng chân thành như câu chuyện dưới đây:

Một người Nga, sau khi mãn tù, đã kể lại tâm trạng mình như sau: Dáng vẻ bên ngoài của tôi xấu xí đến độ không có ai muốn gần tôi. Trong thời gian lao động cải tạo, thay vì làm trại chung với các trại viên khác, tôi đã tự giam mình dưới hầm... Tình cờ một tai nạn xảy ra, khiến tôi bị gù lưng.
Một ngày kia, có một cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi hỏi một cách ngây thơ: "Chú ơi, chú mang cái gì trên lưng thế?". Tôi nghĩ rằng cậu bé chế nhạo tôi, dù vậy tôi bình thản trả lời: "Cục bướu đấy cháu ạ".
Tôi chờ đợi cậu bé  tiếp tục trò chơi gian ác của nó... Nhưng không, nó nhìn tôi một cách trìu mến và nói: "Không phải thế đâu chú ạ. Chúa là tình yêu. Ngài không cho ai hình thù kỳ dị cả. Không phải chú có cục bướu đâu. Chú đang mang trên lưng một cái hộp đó. Trong cái hộp, có dấu đôi cánh của Thiên Thần... Rồi một ngày nào đó, cái hộp mở ra và chú sẽ bay lên trời với đôi cánh đó". Ý nghĩ ngộ nghĩnh của cậu bé đã làm tôi sung sướng đến khóc thành tiếng.

Biết nhìn xa hơn đằng sau mặt nạ của mỗi người: đó là cái nhìn của thánh nhân. Thánh nhân là người biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những nỗi bất hạnh, là người biết nhìn thấy sự may mắn ngay cả trong những mất mát, thua thiệt và nhất là biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những người không ai muốn nhìn đến... Nhưng để được cái nhìn ấy, người ta cần có cái nhìn thông suốt và tràn ngập ánh sáng của Thiên Chúa.

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

Phép lạ

"Bấy giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ." (Mt 12, 38)

Lạy Chúa, ngày nay cũng như ngày xưa, chúng con luôn đi tìm, luôn đòi hỏi thấy cho được "phép lạ" của Chúa với ... một đôi mắt nhắm chặt lại!
Những việc Chúa làm hiển hiện giữa ban ngày, mà các vị chẳng chịu nhìn, chẳng chịu suy gẫm mà cứ khăng khăng đòi hỏi một điềm thiêng theo óc tư duy của mình. Đó là thái độ đón nhận của chúng con!

Chúng con luôn muốn Thiên Chúa đi vào quỹ đạo kiểm soát của con người, Thiên Chúa phải đáp ứng theo những gì mà con người cho là khác thường thì điều đó mới thật là phép lạ. Chẳng những thế phép lạ đó phải "cân, đong, đo, đếm" được thì mới có thể chấp nhận được. Cái đó mới thật tâm phục, khẩu phục (!)
Hàng ngày, trên bàn thờ, bánh và rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa dưới lời truyền phép của thừa tác viên không phải là một phép lạ cả thể sao? Thế mà có mấy ai quan tâm, hay là, ... chuyện đó vẫn thế có gì lạ đâu (?), đó vẫn là thủ tục của Giáo Hội ấy mà (?)
Hàng ngày, đó đây, những nỗ lực vươn lên vượt khó, cái khó tưởng chừng như nghiền nát hy vọng sống nơi những người bình thường vẫn đang xảy ra. Đó không phải là phép lạ với chúng ta sao?
Một cảnh ban mai rực rỡ giúp chúng ta lấy lại sinh lực, sự khoan khoái để bước vào một ngày mới có phải là điều kỳ diệu không? Những chuyển biến nội tâm nơi người này, người khác đang diễn ra âm thầm và bất chấp mọi ngăn trở bên ngoài để họ có thể tìm gặp Chúa, đó là nổ lực của con người ư?

Lạy Chúa, con xác tín rằng Chúa đang thực hiện phép lạ của Ngài chung quanh con rất nhiều. Phép lạ đó không mang đến cho con một sự kinh ngạc để thuyết phục, nhưng những điều đó được Chúa cho diễn ra để hướng dẫn mọi người chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa và để ca ngợi Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con ra để đón nhận phép lạ Chúa đã thực hiện qua những con người chung quanh con, Chúa đã thực hiện trong vũ trụ xinh đẹp nơi con đang sống, và Chúa đã thực hiện mọi điều... trong con. Tạ ơn Chúa.

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

DỄ VÀ KHÓ


Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một người, nhưng khó là khi bạn tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.
Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác, nhưng khó là khi nhận ra sai lầm của chính mình.
Dễ là khi nói mà không suy nghĩ, nhưng khó là khi biết kiểm soát những lời nói của mình.
Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi hàn gắn vết thương đó.
Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ cho mình.
Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc, nhưng khó là khi làm theo chúng.
Dễ là khi nằm mơ hàng đêm, nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.
Dễ là khi thể hiện chiến thắng, nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.
Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã, nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.
Dễ là khi hứa một điều với ai đó, nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.
Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.
Dễ là khi phê bình người khác, nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.
Dễ là khi để xảy ra sai lầm, nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.
Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.
Dễ là khi nghĩ về một việc, nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành động.
Dễ là khi nghĩ xấu về người khác, nhưng khó là khi cho họ niềm tin.
Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.
Dễ là khi đọc những điều này, nhưng khó là khi bạn thực hiện nó.
Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã …
Cám ơn những ý tưởng hóm hỉnh nhưng rất thực của người bạn không biết tên. Mong rằng những suy nghĩ đơn sơ này sẽ như ánh lửa của một que diêm góp vào với hàng tỷ que diêm khác đang thắp sáng trần thế đầy bóng tối.

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Một Cách Trả Thù

"Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy." (Lc 6, 36-38) 

Lẽ sống tháng 7

Những người thổ dân Nam Phi thường đề cao sự tha thứ bằng câu chuyện sau đây:
Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt lấy cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc trí hô lớn: "Ta đã trả thù được rồi".
Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đình. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra tức khắc người hành khất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm. Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra hầu hạ cho kẻ đã từng hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn no rồi, người đàn bà liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem và nói: "Tôi cũng đã trả được thù rồi".

"Lấy ân trả oán": đó phải là phương châm hành động của người Kitô chúng ta.
Không có cách trả thù nào cao quý hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Nói như thánh Phaolô, chúng ta không mắc nợ với nhau đều gì ngoài tình thương mến.
Chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù, lấy bạo động để tiêu diệt bạo động: con người chỉ đổ thêm dầu vào hận thù và bạo động mà thôi.
Cuộc cách mạng bạo động và đẫm máu nào cũng chỉ mang lại tang thương, chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau khác.
Chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn được nhân loại: đó là cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã đề ra. Chỉ có cuộc cách mạng tình thương ấy mới có thể tiêu diệt được hận thù. Đó là cuộc cách mạng mà người Kitô chúng ta cần phải đeo đuổi mỗi ngày. Thay vì tiêu diệt kẻ thù, chúng ta hãy tiêu diệt chính sự thù hận trong tâm hồn chúng ta.

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2011

THỊT VÀ MÁU

Giuse Việt, O.Carm.

Ngày nó chưa trở thành Kitô hữu, một người bạn không có đạo kể với nó: “Tao nghe nói rằng mỗi Chủ Nhật người Công Giáo ăn thịt và uống máu sống. Thời đại này mà còn những chuyện kinh khủng như vậy. Dã man quá!” 
“Mày nghe ai đồn nhảm thế? Làm gì có chuyện đó!” Nó không tin gạt đi. 
Thế rồi nó mon men đến một ngôi thánh đường để xem thực hư thế nào. Từ hàng ghế cuối trong góc khuất nhà thờ, nó nghe vị linh mục cung kính đọc rõ từng lời: “Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn: vì này là mình Thầy, trao ban cho anh em.” Rồi vị linh mục cầm lấy chén rượu đọc tiếp: “Tất cả anh em, hãy cầm lấy mà uống: vì này là chén máu Thầy, đổ ra cho anh em.”(Lc 22:19) Lúc này nó nhớ lại lời thằng bạn kia nói.
Một lúc sau, nó thấy người ta lên nhận một tấm bánh trăng trắng nho nhỏ và ăn, rồi nhận một chén gì đó rồi uống. Nó chợt thấy rùng mình nổi gai ốc. 
Từ ngày ấy, nó bắt đầu tìm hiểu về cái mà người vẫn gọi là “ăn thịt và uống máu sống”. Sự thật không hoàn toàn giống như thằng bạn nó phao tin đồn. Nó phát hiện ra nhiều điều lý thú hơn như vậy. 
+++ 
Bây giờ, nó là một Kitô hữu. Hiểu biết của nó rộng thoáng hơn, tâm hồn nó chan hoà hơn, thái độ sống của nó tích cực hơn vì nó đã “ăn thịt và uống máu” của Thầy Giêsu. Nó không biết giải thích thế nào cho thằng bạn kia hiểu điều nó đã khám phá trong tâm hồn. Thằng bạn kia cũng chẳng thắc mắc nhiều vì đó là chuyện riêng của nó, nhưng hắn thấy nó vui vẻ và bình an hơn trước. 
Thế rồi một ngày kia, trong khi đang cầm tấm bánh trên tay, tự dưng trong tâm trí nó xuất hiện bao nhiêu câu hỏi: Đây là Chúa thật sao? Làm sao Chúa Tể trời đất có thể ở trong tấm bánh nhỏ bé, mỏng manh mà mình sắp ăn? Có thật là bánh này trở thành mình Chúa và rượu này trở thành máu Chúa không? Nếu có thì việc này xảy ra như thế nào? Tại sao Chúa lại chọn ở trong tấm bánh, ly rượu này? Sao tôi không thấy chúng giống thịt và máu bình thường?... 
Từ đó, nó có nhiều thắc mắc, băn khoăn về Thánh Thể. Nó cảm thấy khó hiểu nhưng may thay nó kiên nhẫn học hỏi Kinh Thánh và Truyền Thống để tìm câu trả lời.
+++ 
Một ngày kia, nó tìm thấy câu trả lời như sau: 
Trước khi trời đất được tạo thành, có một Tình Yêu Vô Biên tự hữu mà niềm tin Kitô gọi là Thiên Chúa. Tình Yêu ấy tuôn trào sáng tạo mọi sự tốt đẹp, trong đó có con người. Tình Yêu chăm sóc con người qua từng hơi thở, từng nhịp đập trái tim, từng cảm nghĩ. Khi con người dùng tự do của mình để lạc xa Tình Yêu, Tình Yêu vẫn hiện diện sát bên để đồng hành nâng đỡ. Tình Yêu khao khát trao ban, ngày càng mãnh liệt theo dòng thời gian. Cho đến một ngày kia, Thiên Chúa Tình Yêu đã quyết định hoá thành Con Người để ở giữa nhân loại. Thiên-Chúa-ở-với-nhân-loại ấy mang một cái tên con người là Giêsu (Mt 1:23; Lc 1:31). Ngài đã sống với, sống cho, sống vì con người bất kể họ là ai. Cả cuộc đời Ngài gói trọn vẹn trong một chữ “yêu” và yêu cho đến tận cùng (Ga 13:1). 
Tiếp tục lật giở từng trang Kinh Thánh, nó đọc được tâm sự của Thiên Chúa nơi Thầy Giêsu khi Thầy nói: “Cha ơi, con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta…. Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17:20-24) Một khao khát mãnh liệt được ở với từng con người để chăm sóc họ luôn canh cánh bên lòng Thiên-Chúa-làm-người cho đến dòng cuối cùng của sách Tin Mừng: “Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:20) 
    Bây giờ thì nó đã hiểu. Câu trả lời cho những thắc mắc hóc búa hôm nào trở thành khá đơn giản: tất cả nằm ở “tấm lòng Thiên Chúa”. Cầm tấm bánh và ly rượu đã thánh hiến, nó cảm thấy tự tin và hạnh phúc vô cùng. “Đây là Chúa thật sao?” Đúng, đây là Thiên Chúa của nó. “Làm sao Chúa Tể trời đất có thể ở trong tấm bánh nhỏ bé, mỏng manh mà mình sắp ăn? Thiên Chúa có thể tạo dựng trời đất dễ dàng thì chuyện này có ăn thua gì chứ. Có thật là bánh này trở thành mình Chúa và rượu này trở thành máu Chúa không? Nó không muốn giải thích dài dòng mà chỉ muốn khẳng định rằng khi nó lãnh nhận bánh rượu này, nó được nuôi dưỡng một cách lạ lùng, được bình an và hạnh phúc sâu xa trong tâm hồn mà chẳng có loại thức ăn nào làm được. Nếu có thì sự việc xảy ra như thế nào? Truyền thống dạy rằng khi linh mục đọc lại lời của Thầy Giêsu trong Thánh Lễ thì bản thể của bánh và rượu được biến đổi thành Mình và Máu Chúa. Bên ngoài là hình bánh rượu nhưng bên trong không còn là bánh rượu nữa. Nó thì suy nghĩ đơn giản thế này thôi: Xảy ra như thế nào thì đó là việc của Chúa. Ngài luôn làm những gì Ngài nói, chẳng bao giờ thất hứa. Tại sao Chúa lại chọn ở trong tấm bánh, ly rượu này? Đơn giản vì Chúa rất tâm lý: Người chọn cách thức bình dân và gần gũi nhất để thể hiện điều sâu thẳm và cao quý nhất. Còn gì bình dân gần gũi hơn là ăn uống. Còn gì thẳm sâu cao quý hơn là trao ban chính mình. Ồ mà sao tôi không thấy chúng giống thịt và máu bình thường nhỉ? Đến đây thì nó thấy câu hỏi trở nên nực cười. Đố nó dám ăn thịt sống uống máu tươi! Thiên Chúa thật là tâm lý. Ngài hiện diện tràn đầy mà lại vô cùng nhẹ nhàng. Ngài có đó trọn vẹn mà cứ như ẩn mình để không làm người đón nhận sợ hãi hay mất tự do. Ngài chẳng cần vinh quang cao sang mà chỉ cần ở với con người. Chúa cứ hiện diện lặng lẽ một cách dễ thương như vậy. Nó mỉm cười. Nhẹ nhõm trong tạ ơn. 
Bạn mến, phần cuối lời truyền phép Thánh Thể, vị linh mục còn lặp lại lời Thầy: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.” (Lc 22:19; 1Cr 11:25) Việc Thầy làm là trao ban chính mình làm lương thực trường sinh cho các môn đệ, trong đó có chúng mình. Vậy ta hãy nguyện sẵn sàng trở nên lương thực nuôi dưỡng anh chị em, bạn nhé.